Tôn Nữ Thị Ninh, một cái tên gắn liền với nền ngoại giao Việt Nam hiện đại là một người phụ nữ với bản lĩnh thép và trí tuệ sắc sảo trong lĩnh vực ngoại giao. Vậy, Tôn Nữ Thị Ninh là ai? Hãy cùng Influencervn khám phá cuộc đời và sự nghiệp của bà trong bài viết dưới đây.
Tôn Nữ Thị Ninh là ai?
Tôn Nữ Thị Ninh, sinh vào ngày 30 tháng 10 năm 1947, đã đảm nhiệm vị trí Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Liên minh châu Âu và Vương quốc Bỉ. Bà cũng giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Việt Nam. Những đóng góp của bà trong lĩnh vực ngoại giao của Việt Nam được đánh giá cao.
Xuất thân từ dòng dõi hoàng tộc nhà Nguyễn, bà sinh ra tại thành phố Huế. Năm 1950, bà cùng gia đình chuyển đến Pháp sinh sống, sau đó trở lại Sài Gòn. Bà học bậc trung học tại trường Marie Curie ở Sài Gòn. Đến năm 1964, bà tiếp tục con đường học vấn tại Pháp, theo học tại Đại học Paris (Pháp) và Đại học Cambridge (Anh).
Trong giai đoạn 1968 – 1973, bà đã cộng tác với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, hỗ trợ Phái đoàn đàm phán của Việt Nam tại Paris với vai trò là một người giúp việc bên ngoài. Bên cạnh đó, bà từng đảm nhận vai trò phiên dịch tiếng Anh không chính thức trong một số cuộc gặp gỡ cho Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình. Ngoài ra, bà còn tham gia giảng dạy tiếng Anh và văn học Anh tại Đại học Paris 1, Trường Sư phạm Cấp cao, Fontenay-aux-Roses và Đại học Luật.

Sự nghiệp ngoại giao đáng chú ý của bà Tôn Nữ Thị Ninh
Sau khi đã biết Tôn Nữ Thị Ninh là ai, ta hãy cùng khám phá về sự nghiệp ngoại giao của bà.
Năm 1972, sau khi hồi hương, bà đảm nhận vị trí Phó Trưởng Khoa tại Khoa Tiếng Anh thuộc Đại học Sư phạm Sài Gòn. Đến năm 1975, một cuộc gặp gỡ tình cờ với ông Xuân Thủy, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, người từng quen biết bà trong giai đoạn Hội nghị Paris (1968-1972), đã thay đổi hướng đi sự nghiệp của bà. Theo gợi ý của ông, bà chuyển sang công tác tại Ban Đối ngoại Trung ương.
Bà bắt đầu sự nghiệp ngoại giao với vai trò phiên dịch, tích lũy kiến thức và kỹ năng qua việc làm việc cùng các lãnh đạo cấp cao như Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông Xuân Thủy và ông Nguyễn Cơ Thạch.
Ông Jean-Pierre Debris, chứng kiến bà phiên dịch cho Tổng thống Pháp François Mitterrand trong chuyến thăm Việt Nam năm 1993, đã so sánh bà với một nghệ nhân kim hoàn bậc thầy. Bà đã đảm nhiệm vai trò Đại sứ tại Bỉ và bên cạnh Liên minh Châu Âu (EU), đồng thời là Trưởng phái đoàn Việt Nam tại EU ở Brussel, Bỉ. Bà cũng từng là thành viên Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Vị trí công tác cuối cùng của bà là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội. Tại đây, bà đã có những phát ngôn mạnh mẽ, phản bác các cáo buộc về nhân quyền từ phía Hoa Kỳ và Quốc hội Hoa Kỳ.
Tháng 2 năm 2013, bà được Chính phủ Cộng hòa Pháp trao tặng Huân chương Bắc đẩu Bội tinh. Tháng 8 năm 2007, bà rời Quốc hội và chuyển sang lĩnh vực giáo dục, sáng lập và giữ chức Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Tư thục Trí Việt, tuy nhiên dự án này không thành công.
Năm 2016, bà công khai bày tỏ sự phản đối việc Đại học Fulbright Vietnam bổ nhiệm cựu Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Bob Kerrey vào vị trí Chủ tịch Hội đồng Tín thác.

Phương châm đối ngoại của bà Tôn Nữ Thị Ninh
Bên cạnh thắc mắc Tôn Nữ Thị Ninh là ai, nhiều người cũng thắc mắc về phương châm đối ngoại của người phụ nữ này.
Khi thực hiện nhiệm vụ đối ngoại, dù vận dụng sự mềm dẻo hay cứng rắn, người đại diện Việt Nam không bao giờ được phép quên đi căn tính quốc gia. Đó là nguyên tắc mà bà Tôn Nữ Thị Ninh luôn tâm niệm.
Trong suốt quá trình hoạt động ngoại giao, bà luôn khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc người làm công tác này phải không ngừng quan sát và học hỏi. Những điều chưa tường tận, cần chủ động nhìn nhận cách người khác thực hiện để noi theo một cách chuẩn mực. Bà cũng đặc biệt coi trọng việc lắng nghe và lĩnh hội những kinh nghiệm quý báu từ thế hệ đi trước, những nhân vật lịch sử để vận dụng một cách linh hoạt vào từng tình huống cụ thể.
Điển hình như câu chuyện về cách Nữ hoàng Anh Victoria đã tinh tế quan sát và khéo léo xử lý một sự cố nhỏ trong buổi tiệc chiêu đãi, giúp vị khách mời tránh khỏi tình huống khó xử. Những mẩu chuyện như vậy luôn được bà Tôn Nữ Thị Ninh ghi nhớ và rút ra bài học cho bản thân.
Theo nhận định của nguyên Đại sứ Tôn Nữ Thị Ninh, một yếu tố then chốt là người làm đối ngoại phải luôn giữ được sự tĩnh tại trong tâm trí và thể hiện thái độ ứng xử ôn hòa, mềm mỏng ra bên ngoài trong mọi hoàn cảnh. Việc để lộ cảm xúc tiêu cực có thể đẩy bản thân vào thế bất lợi, do đó, cần kiểm soát tốt cảm xúc để duy trì vẻ mặt tự nhiên nhất có thể. Bà giải thích rằng “tự nhiên” ở đây không đồng nghĩa với “vô tư”. Cần phân biệt rõ ràng hai khái niệm này.
Người làm đối ngoại giỏi là người biết hài hòa chúng, hành động một cách có ý thức nhưng không cứng nhắc, tự nhiên nhưng không hời hợt, thiếu suy nghĩ – đó chính là “tự nhiên có ý thức”. Bà Ninh tâm sự trong một chuyến công tác nước ngoài, bà đã gặp phải những đối tượng có thái độ và hành động chống đối Nhà nước Việt Nam. Trong những tình huống như vậy, việc vận dụng hiệu quả phương châm “bình tĩnh bên trong, tự nhiên bên ngoài” là vô cùng cần thiết để làm chủ tình hình.
Một trong những điều mà bà đặc biệt trân trọng là việc xây dựng mối quan hệ cá nhân. Bà cho rằng đây là yếu tố cực kỳ quan trọng và không thể thiếu trong hoạt động ngoại giao, đặc biệt là trong bối cảnh ngoại giao hiện đại.
Bà nhấn mạnh: “Chúng ta không chỉ thiết lập quan hệ với những người đang nắm giữ vị trí nhất định, bởi vị trí đó chỉ là tạm thời. Người làm ngoại giao cần chủ động xây dựng mạng lưới quan hệ rộng rãi với nhiều đối tượng khác nhau, để khi cần thiết, trong một thời điểm hoặc hoàn cảnh cụ thể nào đó, có thể tận dụng những mối quan hệ này cho công việc ở một địa bàn khác, phục vụ lợi ích quốc gia.”

Xem thêm: Sentry Marvel Là Ai? Sức Mạnh Tương Đương 1 Triệu Mặt Trời
Như vậy câu hỏi Tôn Nữ Thị Ninh là ai đã có lời giải đáp chi tiết ở trên. Cuộc đời và sự nghiệp của bà là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của trí tuệ, bản lĩnh và lòng yêu nước. Những đóng góp của bà chắc chắn đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.