Trong lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, có biết bao nhiêu vị anh hùng đã ngã xuống để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Nguyễn Cảnh Hoan là một trong số đó. Ông là một vị tướng tài ba, một người con ưu tú của quê hương Nghệ An, đã có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp phò Lê diệt Mạc. Vậy cụ thể Nguyễn Cảnh Hoan là ai? Hãy cùng Influencervn tìm hiểu tại bài viết dưới đây.
Nguyễn Cảnh Hoan Là Ai?
Nguyễn Cảnh Hoan là một vị tướng dưới triều Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam. Một số tài liệu ghi chép ông với các tên gọi khác như Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan. Ông được phong tước Tấn Quận công, đảm nhiệm chức Binh bộ Thượng thư, giữ hàm Thái phó và về sau được thăng lên Quốc công.
Tổ tiên của Nguyễn Cảnh Hoan vốn sinh sống tại phường Thiên Lý, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Đến cuối thời nhà Hồ, do tình hình loạn lạc, gia tộc ông di cư vào làng Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Dòng họ Nguyễn Cảnh của ông còn được biết đến với tên gọi Nguyễn Cảnh Thiên Lý.
Ông là hậu duệ đời thứ sáu của những anh hùng từng góp công lớn dưới thời Hậu Trần như Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh Dị,…
Thân phụ của ông là Phúc Khánh Quận công Nguyễn Cảnh Huy, quê tại làng Ngọc Sơn, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Thân mẫu của ông xuất thân từ dòng họ Thái, thuộc xã Hòa Sơn, huyện Đô Lương.

Nguyễn Cảnh Hoan đã sớm thành danh
Sau khi đã biết Nguyễn Cảnh Hoan là ai, chúng ta hãy cùng tìm về những chiến tích của ông
Khi mới 14 tuổi, Cảnh Hoan đã xuất sắc thi đỗ Hương cống. Nhờ có sự hướng dẫn tận tình từ cha, anh cùng các tướng tài, ông tiếp thu nhanh chóng kiến thức binh pháp. Bản thân Cảnh Hoan vốn thông minh, chăm chỉ rèn luyện nên không chỉ am hiểu văn chương mà còn tinh thông võ nghệ, có thể một mình địch lại hàng trăm quân địch.
Vào tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung ra tay sát hại vua Lê Cung Hoàng rồi chiếm đoạt ngôi vị, lập nên triều đại nhà Mạc. Lúc này, trung thần của triều Lê là An Thành hầu Nguyễn Kim quyết tâm khôi phục nhà Lê nên rút lên vùng Sầm Châu (Lào) để chiêu mộ hào kiệt. Ông đưa Lê Ninh lên ngôi, lấy niên hiệu Lê Trang Tông (1533 – 1548), mở ra thời kỳ Lê Trung hưng.
Bấy giờ, khu vực Thanh Hóa và Nghệ An trở nên bất ổn khi trộm cướp và giặc giã hoành hành. Hưng hưu tử Nguyễn Cảnh Huy cùng năm người con trai đã quay về trấn giữ trại Nùng Quán (Thanh Chương). Họ tổ chức dân binh, khai hoang lập làng, hình thành nên vùng Tùng Lâm, tức Thanh An và Thanh Chi ngày nay.
Không dừng lại ở đó, họ còn tích lũy lương thực, vũ khí, từng bước tuyển mộ binh sĩ, huấn luyện quân đội, rồi khởi nghĩa tại thôn Chiêu Quả, thuộc vùng Nam Đường (phủ Anh Đô). Dưới sự lãnh đạo của cha con Cảnh Huy, lực lượng nghĩa quân không ngừng lớn mạnh, tiêu diệt các toán cướp, dẹp yên các thế lực chống đối. Nhờ đó, Nam Đường dần được ổn định, nhân dân có điều kiện sinh sống và làm ăn.
Đến năm 1536, cha con Cảnh Huy đem quân đến Sầm Châu để theo phò Lê Trang Tông. Sau khi ra mắt Nguyễn Kim, họ nhanh chóng được trọng dụng. Nguyễn Cảnh Huy được phong tước Bình Dương hầu, còn Nguyễn Cảnh Hoan nhận danh hiệu Dương Đường hầu, phục vụ dưới quyền Nguyễn Kim.
Cảnh Hoan là một tướng trẻ có ngoại hình uy nghi, tác phong nghiêm nghị, ánh mắt sắc bén, đánh trận thần tốc và trung thành tuyệt đối. Khi diện kiến Nguyễn Kim, ông lập tức được Dực Nghĩa hầu Trịnh Kiểm – một danh tướng và cũng là con rể của Nguyễn Kim – đánh giá cao và dành sự tin tưởng đặc biệt.
Năm 1548, vua Trang Tông băng hà, Trung Tông lên kế vị. Đến năm 1549, khi đăng quang, Trung Tông đã phong cho Nguyễn Cảnh Huy tước Dương Vũ dực vận tán trị công thần, giữ chức Đô tổng binh sứ, hành đạo Hạ Nghệ An, đồng thời ban tước Phúc Khánh công.
Trận chiến đầu tiên đánh dấu bước ngoặt quân sự của Cảnh Hoan diễn ra vào tháng 12 năm 1547. Lúc đó, quân Mạc tiến công vào Thanh Hóa, căn cứ trọng yếu của nhà Lê. Nguyễn Cảnh Hoan được giao nhiệm vụ dẫn quân phục kích tại các vị trí chiến lược.
Sử sách ghi lại rằng: “Dương Đường hầu Nguyễn Cảnh Hoan đã bố trí mai phục tại các đường hiểm yếu, khiến quân Mạc không hề phòng bị. Đến đêm, ông bất ngờ lệnh cho toàn quân xuất kích, tiêu diệt hơn vạn quân địch. Quân Mạc thất bại nặng nề, vội vã vứt bỏ vũ khí tháo chạy. Đại tướng Nguyễn Kính hoảng loạn đưa vợ lên ngựa, chạy thẳng về Đông Kinh.”
Nhờ chiến công hiển hách này, Nguyễn Cảnh Hoan được phong chức Đề đốc Tấn Quốc công khi mới 26 tuổi (năm 1547).
Hàng loạt chiến công tiếp nối của Nguyễn Cảnh Hoan
Vào tháng 7 năm Nhâm Tý (1552), theo kế hoạch “Tiên hạ thủ vi cường” do trọng thần Lê Bá Ly đề xuất, Thái sư Trịnh Kiểm thuộc triều Lê đã dẫn đại quân tiến đánh và chiếm giữ Thăng Long.
Trong cuộc chiến kéo dài suốt hai năm, Tấn Quốc công Nguyễn Cảnh Hoan lập nhiều chiến công hiển hách, nhờ đó được phong chức Thái bảo. Ông còn được ban quốc tính, mang họ Trịnh và có tên là Trịnh Mô. Với vai trò quan trọng trong triều, ông nhận thêm binh lực, được giao phó việc cai quản các vấn đề trọng yếu cả trong triều lẫn ngoài trấn. Đồng thời, ông cũng thường xuyên tham gia bàn bạc kế sách quân sự cùng chúa Trịnh.
Năm 1570, khi hay tin Thái sư Trịnh Kiểm qua đời, nhà Mạc lập tức điều Khiên vương Mạc Kính Điển tập hợp toàn bộ quân lực để tấn công Thanh Hóa, nhằm chiếm vùng Thang Mộc – căn cứ trọng yếu của triều Lê Trung hưng.
Để đối phó với tình hình này, vua Lê Anh Tông (1556 – 1573) sắc phong Trịnh Tùng làm Trường quốc công, giao quyền chỉ huy thủy bộ đại quân để đối đầu với quân Mạc. Trịnh Tùng tổ chức lực lượng, cử các tướng Hoàng Đình Ái, Trịnh Mô, Phan Công Tích, Đặng Huấn, Nguyễn Hữu Liêu… chia quân bố trí phòng tuyến, dựng lũy, đào hào và chuẩn bị trận địa chặn địch.
Sau đó, Trịnh Mô cùng một số tướng lĩnh tiến quân theo hướng An Định, Vĩnh Phúc (Phủ Thiệu Thiên) để đánh Tống Sơn. Trong khi đó, Hoàng Đình Ái và các tướng còn lại theo đường Lôi Dương, Nông Cống tấn công Quảng Xương. Vua Lê Anh Tông đích thân làm Đô tướng, cùng Trịnh Tùng chỉ huy trung quân, lập đại doanh tại Đông Sơn để sẵn sàng chi viện.
Các mũi tấn công của quân Lê giành thắng lợi, khiến quân Mạc rơi vào thế bất lợi và buộc phải rút lui. Đến tháng 2 năm Tân Mùi (1571), xét công trạng, vua Lê phong Trịnh Mô làm Thiếu phó.
Sau nhiều tháng tiến công Thanh Hóa bằng đường bộ không thành công, tướng lĩnh nhà Mạc thay đổi chiến thuật, huy động lực lượng vượt biển tấn công Nghệ An, với mục tiêu kiểm soát hậu phương của triều Lê để tạo thế chủ động.
Trước tình hình nguy cấp, vua Lê tiếp tục giao nhiệm vụ cho Thiếu phó Tấn Quốc công Trịnh Mô cùng Lại quận công Phan Công Tích đem quân chi viện Nghệ An. Đến năm 1574, hai vị tướng chỉ huy đại quân tiến vào, giao chiến ác liệt với đại tướng nhà Mạc là Thạch quận công Nguyễn Quyện trong nhiều tháng. Cuối cùng, quân Lê giành thắng lợi, buộc Nguyễn Quyện phải tháo chạy về kinh đô.

Sự ra đi của danh tướng Nguyễn Cảnh Hoan
Bên cạnh thắc mắc Nguyễn Cảnh Hoan là ai, nhiều người cũng quan tâm về nguyên nhân cái chết của cô.
Năm Quý Dậu (1573), Triết vương Trịnh Tùng nhận thấy Nguyễn Cảnh Hoan đã nhiều năm chinh chiến, danh tiếng vang xa, lại có tài hùng biện xuất chúng. Do đó, ông quyết định bổ nhiệm Cảnh Hoan vào hàng quan văn, phong tặng danh hiệu Hiệp mưu công thần, đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, giữ chức Binh bộ Thượng thư, đồng thời đảm nhiệm chức vụ Thái phó Tấn Quốc công.
Từ năm Giáp Tuất (1574) đến năm Bính Tý (1576), quân Mạc do Nguyễn Quyện chỉ huy liên tục mở các cuộc tấn công vào Hoan Châu. Trước tình thế đó, Cảnh Hoan đã chỉ huy đại quân gồm 30 tướng lĩnh, trong đó có năm người con trai của ông: Thế Quận công Nguyễn Cảnh Hựu, Trung Quận công Nguyễn Cảnh Huân, Cường Quận công Nguyễn Cảnh Vạn, Lập Quận công Nguyễn Cảnh Chiêu, Thư Quận công Nguyễn Cảnh Kiên. Họ cùng nhau chiến đấu ngoan cường, đẩy lùi quân Mạc từ sông Tam Kỳ ra khỏi Cửa Hội, bảo vệ vùng đất quan trọng này.
Năm Bính Tý (1576), Mạc Kính Điển lại kéo quân đánh vào Thanh Hóa, lệnh cho tướng Tây Đạo Mạc Ngọc Liễn tiến công khu vực sông Đồng Cổ, huyện Yên Định. Nhận thấy tình hình nguy cấp, Tiết chế Trịnh Tùng triệu tập Trịnh Mô từ Hoan Châu về Thanh Hóa bàn bạc kế sách chống giặc.
Tuy nhiên, trong lúc di chuyển, một thuộc tướng của Trịnh Mô phản bội, tiết lộ hành trình của ông cho Nguyễn Quyện. Nhận được tin báo, Quyện lập tức tổ chức mai phục tại huyện Ngọc Sơn. Khi Cảnh Hoan đi ngang qua, quân Mạc bất ngờ tấn công. Lực lượng của Trịnh Mô ít ỏi, voi chiến lại sa lầy, ông chống cự quyết liệt suốt một ngày nhưng cuối cùng bị bắt và giải về Thăng Long.
Con trai ông, dũng tướng Nguyễn Cảnh Kiên, cùng các anh em và tướng lĩnh thân tín đau đớn nhưng vẫn kiên quyết truy kích để giải cứu cha. Tuy nhiên, khi họ đuổi đến bờ biển, thuyền chở Cảnh Hoan đã rời xa.
Trịnh Tùng vô cùng tiếc thương, lập tức sai người mang theo nhiều vàng bạc ra Bắc để chuộc Cảnh Hoan, nhưng mọi nỗ lực đều vô ích. Trong thời gian bị giam cầm, với kiến thức sâu rộng về y dược, Cảnh Hoan đã ghi chép lại những bài thuốc quý thành cuốn “Dược tính” và nhờ gia nô bí mật mang về quê hương.
Nhà Mạc, nhận thấy Cảnh Hoan là một danh tướng kiệt xuất, nhiều lần dụ dỗ ông đầu hàng nhưng không thành. Cuối cùng, họ ra lệnh đầu độc ông trong ngục.
Ngày 16 tháng 9 năm Bính Tý (1576), Cảnh Hoan qua đời ở tuổi 57. Sự trung nghĩa kiên cường của ông khiến cả Nguyễn Quyện, người từng là địch thủ, cũng phải kính phục. Quyện đích thân lo việc khâm liệm và xin phép triều đình nhà Mạc đưa thi hài ông về quê an táng. Đích thân Nguyễn Quyện hộ tống linh cữu Tấn Quốc công Nguyễn Cảnh Hoan đến bờ sông, sắp xếp thuyền đưa về Cửa Hội.
Nhà Lê tổ chức lễ quốc tang để vinh danh ông. Đến năm 1602, triều đình Lê – Trịnh truy phong Nguyễn Cảnh Hoan danh hiệu “Hùng Nghị Khuông Tế Trạch Dân Đại vương” và chỉ định Quốc sư Chính Hòa đưa hài cốt về an táng tại xứ Chọ Mây, thuộc dãy núi Cấm. Một đền thờ lớn cũng được dựng lên bên bờ sông Lam, tại xã Tràng Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An, để nhân dân tưởng nhớ công lao của ông.
Trong trận đại chiến đánh chiếm Thăng Long vào tháng 1 năm 1592, chính Nguyễn Cảnh Kiên – con trai Cảnh Hoan – là một trong những tướng lĩnh dũng mãnh nhất tham gia bắt giữ Nguyễn Quyện. Sau chiến thắng, Cảnh Kiên được phong tước Thư Quận công. Ngoài những chiến công lẫy lừng trên chiến trường, ông còn kế thừa sách thuốc của cha, trở thành một danh y nổi tiếng.
Dòng họ Nguyễn Cảnh tiếp tục truyền thống vẻ vang, đóng góp to lớn vào công cuộc trung hưng nhà Lê. Trong số hậu duệ, có 18 người được phong tước Quận công, 72 người được ban tước Hầu, giữ nhiều vị trí quan trọng trong triều đình.

Xem thêm: Hoàng Kim Ngọc Là Ai? Vị Nữ CEO Kiêm Diễn Viên Xuất Sắc
Nguyễn Cảnh Hoan là ai chúng ta đều đã biết. Ông không chỉ là một vị tướng tài ba mà còn là một tấm gương sáng về lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm và ý chí kiên cường. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là nguồn cảm hứng lớn lao cho các thế hệ con cháu noi theo.